Ngay từ những năm đầu mới giành được chính quyền, Hồ Chí Minh đã nhận thấy vấn đề cốt tử và lâu dài trong Đảng cần phải “Sửa đổi lối làm việc”, xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, đáp ứng nhiệm vụ to lớn của cách mạng. | |
Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm hỏi nông dân Hợp tác xã Hùng Sơn (huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên) đang gặt lúa, năm 1954 (Ảnh tư liệu)
PHÊ BÌNH, SỬA CHỮA LỐI LÀM VIỆC
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm, chăm lo công tác cán bộ, nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng “vừa hồng, vừa chuyên”, xứng đáng với vị trí cầm quyền được lịch sử và nhân dân giao phó. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng, là vũ khí sắc bén để làm cho Đảng ta trong sạch, vững mạnh. Người chỉ rõ: Mục đích phê bình cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ. Cốt để sửa chữa cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn, đoàn kết và thống nhất nội bộ hơn. Nhờ đó, làm cho sự vững mạnh và tiến bộ của Đảng ngày càng tăng thêm. Theo tư tưởng nhân văn của Hồ Chí Minh, việc phê bình và thực hiện tự phê bình vừa phải nghiêm túc nhưng cũng rất thân ái, “chớ dùng những lời mỉa mai, chua cay, châm chọc”. Phê bình việc làm, chứ không phải phê bình người. Theo đó, Hồ Chí Minh nêu lên những căn bệnh mà người cán bộ thường mắc phải trong công việc cần phê bình, sửa chữa. Một là, bệnh chủ quan. Đó là chứng bệnh nguy hiểm gây tác hại lớn cho cách mạng. Nguyên nhân của bệnh chủ quan là do kém hiểu biết về lý luận, hoặc coi khinh lý luận, hoặc lý luận suông, làm việc chỉ theo kinh nghiệm của bản thân, không biết khái quát thành lý luận chung, giải quyết công việc một cách sự vụ, vụn vặt. Hồ Chí Minh đã chỉ ra: “Có kinh nghiệm mà không có lý luận cũng như một mắt sáng, một mắt mờ”, rất nguy hại trong công việc của Đảng, nó biến người cán bộ, đảng viên trở thành những ông “quan cách mạng” vừa mù quáng, quan liêu, vừa giáo điều, xa rời thực tiễn và xa rời quần chúng. Hai là, bệnh hẹp hòi. Đây là căn bệnh cũng rất nguy hiểm, mà nhiều cán bộ và đảng viên vẫn còn mắc phải. Theo Hồ Chí Minh, bệnh này, bên trong thì ngăn cản Đảng thống nhất và đoàn kết, bên ngoài thì phá hoại sự đoàn kết toàn dân. Biểu hiện của bệnh hẹp hòi là ham danh vọng và địa vị, tự tôn, tự đại, kéo bè, kéo cánh, chèn ép những người không ưa mà quên đi mục tiêu chung của Đảng, gây nên sự lủng củng trong nội bộ, sự mất đoàn kết giữa bộ phận và toàn cục, đảng viên với Đảng. Cũng vì bệnh hẹp hòi mà bỏ mất nhân tài, bỏ mất sự đoàn kết với “các hạng đồng bào (như tôn giáo, dân tộc thiểu số, anh em trí thức…)”, dẫn đến phá hoại chính sách đoàn kết, cũng như ảnh hưởng không nhỏ tới sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc. Ba là, bệnh ba hoa. Đây là căn bệnh đến nay vẫn còn khá phổ biến trong cán bộ, đảng viên mà Đảng ta nhận diện là “nói không đi đôi với làm” hay “nói một đường làm một nẻo”. Bệnh ba hoa biểu hiện trước hết là nói và viết dài dòng, rỗng tuếch, dùng chữ cầu kỳ, khó hiểu, không nhằm đúng đối tượng, quần chúng, không thấu hiểu thực tiễn, cho nên không có tác dụng gì cả. Như vậy, sửa đổi lối làm việc của Đảng ở các cấp, trước hết phải đề phòng, sửa chữa các bệnh nêu trên, các bệnh đó vừa là kẻ địch bên trong vừa là bạn đồng minh của kẻ địch bên ngoài, trong đó kẻ địch bên trong đáng sợ hơn, vì nó phá hoại từ trong phá ra. Vì vậy, mỗi cán bộ, đảng viên phải không ngừng nâng cao cảnh giác, đề phòng các căn bệnh đó, tăng cường phê bình, tự phê bình, kiểm điểm, sửa chữa như “mỗi ngày phải tự rửa mặt”. Được như vậy, cán bộ, đảng viên mới không bị “tự chuyển hóa”, “tự diễn biến” và “suy thoái đạo đức, lối sống”, phấn đấu xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. VẤN ĐỀ CÁN BỘ VÀ CÔNG TÁC CÁN BỘ Cán bộ có vai trò quan trọng trong sự nghiệp cách mạng. Triết lý cán bộ đã được Hồ Chí Minh khẳng định, là “gốc” của mọi công việc. Công việc tốt xấu đều do cán bộ mà ra. Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như trong các nghị quyết của Đảng ta đều dành sự quan tâm đặc biệt cho công tác cán bộ. Nghị quyết Trung ương 3, khóa VIII của Đảng xác định: Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, là then chốt trong then chốt của công tác xây dựng Đảng. Thực tiễn đã chứng minh rõ điều đó và ngày càng phải chú trọng đến công tác cán bộ. Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Hồ Chí Minh đã chỉ ra những khuyết điểm, yếu kém trong công tác cán bộ, đồng thời đề ra những quan điểm và giải pháp về vấn đề cán bộ mà đến nay những chỉ dẫn ấy vẫn còn mang tính thời sự nóng hổi. Trước hết, là việc đào tạo cán bộ cho cách mạng. Vì cán bộ là cái “gốc” của mọi công việc, do đó, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là công việc “gốc” mà Đảng thường xuyên phải chăm lo. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ huấn luyện nghề nghiệp cho cán bộ là khâu đầu tiên. Vì, vô luận cán bộ ở môn nào, làm nghề nào, ngành nào cũng phải học cho thành thạo công việc ở môn ấy; đồng thời, phải nghiên cứu những chính sách, chỉ thị, nghị quyết của Đảng và Chính phủ; học tập những kinh nghiệm thành công và thất bại; học tập lịch sử truyền thống cách mạng và sự phát triển trong từng thời kỳ… Theo đó, việc huấn luyện phải sắp xếp cách dạy và học, kiểm tra kết quả, sao cho cán bộ dần dần đi đến thạo công việc; huấn luyện chính trị, môn nào cũng phải có, cần coi trọng nâng cao kiến thức văn hóa. Thứ hai, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ. Hồ Chí Minh cho rằng, Đảng phải luôn nuôi dạy cán bộ như người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu; trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một người có ích cho công việc chung của Đảng, của đất nước. Đảng phải biết rõ cán bộ, xem xét lại nhân tài và tìm nhân tài mới. Một trong những vấn đề Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm, đó là đặt đúng người vào đúng công việc thích hợp. Người nói: “Phải khéo dùng cán bộ”. Tức là, phải biết tùy tài mà dùng người; Phải phân phối cán bộ cho đúng. Tức là phải dùng người đúng chỗ, đúng việc. Kế thừa sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn lịch sử, Đảng ta đã có nhiều chủ trương, quan điểm rõ ràng về chính sách đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ. Tuy nhiên, trên thực tế, có lúc, có nơi chưa làm tốt công tác này để xảy ra tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy bằng cấp, chạy luân chuyển… bố trí sử dụng sai cán bộ. Vì thế, làm thui chột ý chí của những cán bộ có năng lực, gây nên nhiều hệ lụy trong Đảng và sự bức xúc, bất bình của quần chúng. Thứ ba, xây dựng cơ chế làm việc cho cán bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra năm cách. Một là, chỉ đạo – thả ra cho họ làm, thử cho họ phụ trách, dù sai lầm chút ít cũng không sợ. Nhưng phải luôn luôn tùy hoàn cảnh mà bày vẽ cho họ về phương hướng công tác, cách thức công tác để phát triển năng lực và sáng kiến. Hai là, luôn bồi dưỡng cán bộ, nâng cao tư tưởng, trình độ lý luận và cách làm việc cho họ. Ba là, thường xuyên kiểm tra để giúp họ rút kinh nghiệm, sửa chữa khuyết điểm, phát triển ưu điểm. Bốn là, khi họ sai lầm thì dùng cách thuyết phục giúp họ sửa chữa, cải tạo. Năm là, giúp đỡ họ điều kiện sinh sống đầy đủ mà làm việc. Những điều đó có mối quan hệ rất quan trọng đối với tinh thần của cán bộ và sự thân ái đoàn kết trong Đảng. Đó là những cách làm khoa học, nhân văn sâu sắc rất cần trong đời sống cán bộ và công tác cán bộ hiện nay. Thứ tư, về chính sách cán bộ, Sửa đổi lối làm việc theo tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh trong điều kiện hiện nay của cán bộ, đảng viên là hết sức cần thiết. Hơn lúc nào hết, Đảng phải xốc lại đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất về đạo đức chính trị, đủ năng lực về chuyên môn, có lề lối làm việc khoa học mới có thể đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế. Trong đó, chú trọng một số nội dung sau: Một là, “cần hiểu biết cán bộ”. Hiểu biết cán bộ là vấn đề không đơn giản. Nếu không biết sự phải trái của cán bộ, thì không thể nhận rõ ai là cán bộ tốt hay xấu. Hồ Chí Minh chỉ rõ, các chứng bệnh thường gặp của cán bộ ta là: tự cao tự đại; ưa người ta nịnh mình; do lòng yêu, ghét của mình mà đối với người; đem một cái khuôn khổ nhất định, chật hẹp mà lắp vào tất cả mọi người khác nhau. Phạm một trong bốn chứng bệnh đó “cũng như mắt đã mang kính có màu, không bao giờ nhìn thấu rõ cái mặt thật của những cái mình trông”. Vì vậy, nhận xét cán bộ cần phải phải xuất phát từ hiện thực khách quan, với quan điểm toàn diện, lịch sử cụ thể, đồng thời, phải hiểu biết tâm tư, năng lực, sở trường của họ, không nên chỉ xét ngoài mặt, một lúc, một việc, mà phải xét kỹ cả toàn công việc của họ. Qua đó, mới biết chỗ tốt, chỗ xấu của cán bộ mà nâng cao chỗ tốt và giúp họ sửa chữa chỗ xấu.
Hai là, “khéo dùng cán bộ”. Mục đích khéo dùng cán bộ (dùng đúng người đúng việc, đúng sở trường), cốt để thực hành đầy đủ chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ. Đồng thời, chống lại những chứng bệnh như: chạy chức, chạy quyền, chạy vị trí công tác, kéo bè kéo cánh, địa phương, cục bộ như hiện nay đang xảy ra khá phổ biến ở nhiều nơi, khiến cho nhiều cán bộ hư hỏng, suy thoái về đạo đức, lối sống, tha hóa về quyền lực. Nếu chỉ ham dùng những người giỏi nịnh hót, có tiền có của, anh em họ hàng, mà chán ghét những người chính trực… tất yếu sẽ dẫn đến kết quả là bộ máy tổ chức cán bộ càng ngày càng hư hỏng. Cố nhiên sẽ hỏng cả việc của Đảng, hỏng cả danh giá của người lãnh đạo. Uy tín của Đảng đối với nhân dân vì thế sẽ bị suy giảm, thậm chí là nguy cơ đe dọa đến sự tồn vong của Đảng và chế độ. TS. Hoàng Quốc Đạt Bài đăng trên Tạp chí Tuyên giáo số 8/2019 (MH) |