Ảnh minh họa: Phương Liên

Vừa qua, ở Văn kiện Đại hội XIII của Đảng (2021), mục tiêu ĐLDT và CNXH đã được thể hiện rõ cả trong nội dung xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam.

Trước hết, như chúng ta đã biết, từ Văn kiện Trung ương 5, khóa VIII (1998), nền văn hóa Việt Nam được xác định là:“nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”. Nội dung trước hết của phương hướng chung xây dựng nền văn hóa này là: “…phát huy chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập tự chủ, tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa…”[1]. Còn, “Tiên tiến: là yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn diện của con người trong mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội và tự nhiên. Tiến tiến không chỉ về nội dung tư tưởng mà cả trong các phương tiện chuyển tải nội dung’’. Và “Bản sắc dân tộc” bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắt kết cá nhân – gia đình – làng xã – Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống…”[2]. Như vậy, phương hướng và nội hàm chung của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là đã bao hàm tinh thần vì ĐLDT và CNXH, là phải góp phần đào tạo, rèn luyện con người xứng đáng là chủ thể xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Đến Đại hội XIII, một lần nữa khẳng định rằng: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa, con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển và bảo vệ Tổ quốc”[3]. Do đó, bằng việc khẳng định lại việc xây dựng nền văn hóa này, Văn kiện Đại hội XIII, cũng đồng thời khẳng định một lần nữa tinh thần về mục tiêu ĐLTD và CNXH trong xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam hiện nay.

Hai là, công cuộc đổi mới là toàn diện, trên mọi lĩnh vực của đời sống, nhưng, trong đó, bốn lĩnh vực có thể gọi là “trụ cột” đối với sự phát triển chung của đất nước và đã được Đại hội XII(2016) nêu rõ. Đó là: “Phát triển kinh tế – xã hội là trọng tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa – nền tảng tinh thần của xã hội; bảo đảm quốc phòng và an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên”[4]. Bốn trụ cột này là cô đọng của tinh thần bảo vệ vững chắc độc lập, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và đồng thời là xây dựng đất nước theo định hướng XHCN. Trong thực tế, đó cũng là tinh thần của ĐLDT gắn liền với CNXH. “Nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên” bảo vệ vững chắc Tổ quốc là tạo môi trường hòa bình, ổn định cho xây dựng đất nước; “nhiệm vụ trọng tâm” – phát triển kinh tế – xã hội, “nhiệm vụ then chốt” – xây dựng Đảng, và phát triển “nền tảng tinh thần của xã hội” được phát huy có hiệu quả sẽ tạo điều kiện, nguồn lực vật chất và tinh thần cho bảo vệ vững chắc ĐLDT. Như vậy, văn hóa là một trụ cột của công cuộc đổi mới xây dựng CNXH, góp phần quan trọng cho mục tiêu ĐLDT.

Đến Đại hội XIII, một mặt, nêu lại tinh thần trên của Đại hội XII, hơn nữa, mặt khác nhấn mạnh rằng, việc: “gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó phát triển kinh tế – xã hội là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng an ninh là trọng yếu, thường xuyên”[5] là một trong những nội dung của “Quan diểm chỉ đạo” thuộc “Tầm nhìn và định hướng phát triển” tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới của Đảng trong giai đoạn mới[6].

Ba là, tầm quan trọng nêu trên của phát triển văn hóa vì ĐLDT và CNXH trong công cuộc đổi mới, còn được Đảng ta nhấn mạnh: “vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển bền vững đất nước” và “Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người…”[7]. Vì thế, Đại hội XIII đã khách quan, thẳng thắn đánh giá kết quả cả thành tựu, lẫn hạn chế của phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong những năm gần đây. Thành tựu hay hạn chế của xây dựng văn hóa và con người đều trực tiếp hoặc gián tiếp tác động tích cực hoặc tiêu cực đến sự nghiệp xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN hiện nay.

Văn kiện Đại hội XIII nêu rõ, về thành tựu: “Các lĩnh vực, loại hình, sản phẩm văn hóa phát triển ngày càng đa dạng, đáp ứng nhu cầu mới, nhiều mặt của đời sống xã hội”, “Phát triển toàn diện con người Việt Nam đang từng bước trở thành trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế – xã hội”[8]…Tuy vậy, “Văn hóa chưa được quan tâm tương xứng với kinh tế và chính trị, chưa thật sự trở thành nguồn lực, động lực nội sinh của phát triển bền vững đất nước. Vai trò của văn hóa trong xây dựng con người chưa được xác định đúng tầm, còn có chiều hướng coi trọng chức năng giải trí đơn thuần”… Nghĩa là, phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam “chưa có nhiều đột phá, hiệu quả chưa cao”[9] so với các lĩnh vực khác về phát triển kinh tế – xã hội, xây dựng Đảng, bảo đảm quốc phòng, an ninh… trong công cuộc đổi mới, giữ vững ĐLDT và định hướng đi lên CNXH của đất nước.

Bốn là, vì thế, việc chú trọng đến xây dựng văn hóa, con người Việt Nam “phải đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội” được nêu ra từ Hội nghị Trung ương 9 khóa XI(2014)[10], nay, lại nhấn mạnh đó là vấn đề cấp bách, do chính từ đòi hỏi của nhiệm vụ cụ thể giữ vững ĐLDT và xây dựng CNXH trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay. Văn kiện Đại hội chỉ rõ rằng, tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen, đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới nặng nề, phức tạp hơn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta phải thực hiện những nhiệm vụ lớn lao là: Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ XHCN; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng XHCN[11].

Do đó, phải phát huy giá trị văn hóa hướng vào góp phần đắc lực cho thực hiện các nhiệm vụ nặng nề nêu trên. Các nhân lực văn hóa (cán bộ sáng tác, biểu diễn, quản lý…), các lĩnh vực văn hóa (văn học, nghệ thuật, lý luận văn hóa…), các thể thể chế văn hóa (nhà hát, bảo tàng, truyền thông, nhà xuất bản…), các môi trường văn hóa (gia đình, nhà trường, địa phương…)… phải phát huy đồng bộ, bằng những chuyên môn, nghiệp vụ, hoạt động, phù hợp góp phần hiện thực hoá sự nghiệp giữ vững ĐLDT và xây dựng thành công CNXH. Các giá trị văn hóa mang đặc trưng dân tộc – nhân văn – dân chủ – khoa học là nâng cao được chất lượng tinh thần và phát triển toàn diện con người Việt Nam, con người Việt Nam phải trở thành trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, qua đó phát huy sức mạnh con người Việt Nam với tính cách là nguồn lực quan trọng nhất để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong công cuộc đổi mới hiện nay.

Năm là, để tiếp tục xây dựng và phát huy hơn nữa giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam vì mục tiêu ĐLDT và CNXH nói chung và góp phần thực hiện những định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 -2025, Văn kiện Đại hội XIII đã nêu ra những giải pháp, không chỉ cho trước mắt, mà còn để vận dụng lâu dài và có thể tóm lược lại như sau:

– “Tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới…”[12]. Đây là vấn đề trước hết và là điểm mới mà Văn kiện nêu ra, cần phải được triển khai nhanh để làm cơ sở lý thuyết và thước đo – chuẩn mực cho thực tiễn xây dựng văn hóa và con người Việt Nam.

– Về con người, “Tăng cường giáo dục lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, tuyên truyền về lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thanh niên”, “ngăn chặn có hiệu quả sự xuống cấp về đạo đức, lối sống, đẩy lùi tiêu cực tệ nạn xã hội”; “Từng bước vươn lên khắc phục hạn chế của con người Việt Nam trong thời đại mới, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại”…Về văn hóa, “Bảo vệ và phát huy giá trị tốt đẹp, bền vững trong truyền thống văn hóa Việt Nam. Đẩy mạnh giáo dục nâng cao nhận thức, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật, bảo vệ môi trường, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của người Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ”[13]…Như vậy, phát huy giá trị văn hóa và sức mạnh con người Việt Nam phải mang tính toàn diện, chú trọng đến lớp trẻ, phải vừa “xây” cái tốt, cái mới, vừa “chống” cái xấu, cái lạc hậu… Tinh thần mới của vấn đề nêu trên còn là, trước đây, chúng ta chỉ nhấn mạnh nhiều đến những mặt mạnh của con người Việt Nam. Nhưng nay, cần phải chỉ ra thêm những điểm yếu và việc khắc phục những điểm yếu này của con người Việt Nam, mà trong thực tế, ngày càng tăng những biểu hiện đáng lo ngại, làm méo mó cả tinh thần và thể xác của không ít người Việt Nam.

– Về môi trường văn hóa, “Có cơ chế, chính sách, giải pháp để xây dựng môi trường văn hóa thật sự trong sạch, lành mạnh, cải thiện điều kiện hưởng thụ văn hóa của nhân dân. Phát huy ý thức tự giác của toàn dân xây dựng và thực hiện các chế tài, qui định, qui ước xã hội, bảo đảm công bằng về cơ hội và hưởng thụ văn hóa. Khắc phục sự chệnh lệch về trình độ phát triển và đời sống văn hóa giữa các vùng, miền, các giai tầng xã hội, đặc biệt quan tâm đến vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, các khu công nghiệp”… Những tinh thần này, về môi trường văn hóa, thể hiện phương châm xã hội hóa trong hoạt động văn hóa và phản ánh bản chất nhân văn của nền dân chủ XHCN. Về môi trường văn hóa, Văn kiện Đại hội XIII còn lưu ý đến xây dựng và phát huy văn hóa gia đình; nhân tố tích cực, nhân văn trong các tôn giáo, tín ngưỡng; môi trường văn hóa công sở lành mạnh, dân chủ, đoàn kết; văn hóa doanh nghiệp, doanh nhân và kinh doanh…[14]

– Đối với các loại hình văn hóa nghệ thuật, phải nâng cao chất lượng, hiệu quả, “Có kế hoạch, cơ chế và giải pháp, xử lý đồng đều mối quan hệ giữa bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa, lịch sử truyền thống dân tộc trong xây dựng con người, phát triển văn hóa – xã hội. Chú trọng nâng cao các giá trị tư tưởng, nghệ thuật, đồng thời bảo đảm tự do, dân chủ trong sáng tạo nghệ thuật. Khuyến khích những tìm tòi mới làm phong phú thêm bản sắc văn hóa Việt Nam; hạn chế các lệch lạc, các biểu hiện chạy theo thị hiếu tầm thường. Quan tâm, tạo điều kiện phát triển văn hóa, văn nghệ của các dân tộc thiểu số”. Và cùng với những vấn đề này, Văn kiện Đại hội XIII còn chỉ rõ: “Tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức hoạt động của các hội văn học, nghệ thuật, tập hợp đông đảo văn nghệ sĩ tham gia; khuyến khích tự do sáng tạo, thực thi quyền tác giả”[15].

– Về ngành công nghiệp văn hóa và dịch vụ văn hóa, phải triển khai khẩn trương, có trọng điểm, “trên cơ sở xác định và phát huy sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam, vận dụng có hiệu quả các giá trị, tinh hoa và thành tựu mới của văn hóa, khoa học, kỹ thuật, công nghệ của thế giới”. Đối với ngành công nghiệp và dịch vụ này, trong điều kiện của Cuộc cách mạng công nghệ 4.0, nếu vận dụng được những thành tựu của nó, với những sản phẩm thông minh và trí tuệ nhân tạo, mới có thể nâng tầm thời đại của sản phẩm văn hóa Việt Nam. Văn kiện Đại hội XIII còn nêu rõ một ngành công nghiệp văn hóa và lĩnh vực văn hóa cụ thể quan trọng cần chú ý tác động. Đó là: phát triển văn hóa gắn với du lịch; xây dựng nền báo chí, tuyền thông, chuyên nghiệp, nhân văn và hiện đại; sắp xếp ngành xuất bản, in và phát hành theo hướng tinh gọn, chất lượng, hiện đại; tăng cường quản lý và phát triển các loại hình truyền thông, thông tin trên internet…[16]

– Đối với lãnh đạo và quản lý văn hóa, “…tiếp tục đổi mới toàn diện nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước về văn hóa. Tăng cường đầu tư, khai thác và phát huy tối đa các ngồn lực văn hóa đi đôi với đổi mới nội dung, phương thức quản lý, khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, kém hiệu quả; tăng cường kiểm tra, giám sát, bảo đảm hiệu quả đầu tư cao trong lĩnh vực văn hóa”… Ở nước ta, các lĩnh vực hoạt động, trong đó có văn hóa, đều do Đảng lãnh đạo và Nhà nước quản lý để đảm bảo định hướng XHCN, góp phần tích cực vào mục tiêu ĐLDT và CNXH hiện nay.Văn kiện Đại hội XIII còn chỉ đạo việc đổi mới các thiết chế văn hóa để có hiệu quả; đào tạo và phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, tham mưu trong lĩnh vực văn hóa, có am hiểu văn hóa, có phẩm chất, bản lĩnh, năng lực chuyên môn đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ; đổi mới và hiện đại hóa các qui trình, nội dung, phương thức đào tạo để khắc phục sự thiếu hụt đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa…[17]

– Sau nữa, để giữ vững độc lập, tự chủ trong lĩnh vực văn hóa, phát huy sức mạnh con người Việt Nam – nguồn lực quan trọng nhất của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN, trong điều kiện toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng, Văn kiện Đại hội XIII yêu cầu: “Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế về văn hóa, xây dựng Việt Nam thành địa chỉ hấp dẫn về giao lưu văn hóa quốc tế. Tiếp thu có khoa học tinh hoa văn hóa nhân loại phù hợp với thực tiễn Việt Nam, đồng thời nâng cao sức đề kháng của tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thanh thiếu niên đối với các văn hóa phẩm ngoại lai độc hại; từng bước đưa văn hóa Việt Nam đến với thế giới”[18].

Nghiên cứu tinh thần Văn kiện Đại hội XIII về xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam vì mục tiêu ĐLDT và CNXH, nhận thấy một số vấn đề đặt ra cần quan tâm trước hết:

Cần thống nhất về nhận thức khái niệm “văn hóa”. Vì hiện nay, cả trong thực tế và văn bản phổ thông ,cũng như chính thống, hiểu rất khác nhau. Cần thống nhất sử dụng “văn hóa” theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp. Nếu theo Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, thì văn hóa theo nghĩa rộng, bao gồm nhiều lĩnh vực, nội dung: văn hóa, nghệ thuật, giáo dục, khoa học, kỹ thuật… Còn, trong các văn kiện đại hội Đảng lại dùng theo nghĩa hẹp, đặt lĩnh vực văn hóa bên cạnh các lĩnh vực khác: kinh tế, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, đối ngoại, quốc phòng – an ninh…

Cần nâng cao năng lực lãnh đạo và quản lý về văn hóa, nhất là đối với đội ngũ nhân lực, lên tầm nghệ thuật. Lãnh đạo và quản lý con người nói chung là một khoa học. Đội ngũ nhân lực làm văn hóa, trong đó đông đảo là lực lượng sáng tác, biểu diễn, là những văn nghệ sĩ thuộc tầng lớp trí thức – lao động trí óc có nhiều đặc thù về cá tính, tâm tư, về lối sống – tâm lý, về hình thức hoạt động sáng tạo… Do đó, ở đây, công tác lãnh đạo và quản lý càng cần phải nâng cao chất lượng, không chỉ là một khoa học, mà còn là một nghệ thuật.

Công tác lãnh đạo và quản lý về văn hóa hướng vào nhiệm vụ trọng tâm là phát triển toàn diện con người Việt Nam, qua đó phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam vào mục tiêu ĐLDT và CHXH, thì cần phải tiếp tục bồi dưỡng, quán triệt nội dung Văn kiện Đại hội XIII, nhất là nội dung của ĐLDT và xây dựng CNXH hiện nay ở nước ta cho đội ngũ quản lý, tham mưu, sáng tác, biểu diễn…văn hóa.

Hiện nay, thông tin phong phú – phức tạp, đa chiều ,không biên giới đem lại nhiều thuận lợi, nhưng rất nhiều những ảnh hưởng xấu, độc hại, phản động…đến văn hóa nước nhà và con người Việt Nam. Đấu tranh, loại bỏ, hạn chế các hình thức thông tin và sản phẩm văn hóa độc hại, phải được chú trọng hơn nữa – như là cuộc chiến một mất, một còn trên lĩnh vực tư tưởng – văn hóa. Qua đó, làm cho giá trị văn hóa và sức mạnh con người Việt Nam ngày càng phát huy cao độ vì mục tiêu ĐLDT và CNXH của đất nước.

Như đã nói, giải pháp đầu tiên cho xây dựng văn hóa và con người Việt Nam trong thời gian tới, mà Văn kiện Đại hội XIII chỉ ra, là phải: “xây dựng hệ giá trị quốc gia”,’’hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người’’, “hệ giá trị gia đình’’ Việt Nam. Đây là vấn đề mới mẻ, cần làm ngay, tạo luận cứ khoa học cho đường lối và chính sách liên quan đến văn hóa và con người. Thực tế gần đây cho thấy, những lúc cam go, con người Việt Nam thường bộc lộ hết cả mặt mạnh, mặt yếu – điểm tốt, điểm xấu (trong tình hình dịch bệnh COVID – 19 hiện tại là một ví dụ). Vì thế, việc xây dựng các hệ giá trị này phải nghiên cứu đặt trong bối cảnh có tình huống thử thách của thực tiễn, để xác định được các giá trị xác thực phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam vì mục tiêu ĐLDT và CNXH.

Và, như vậy, thực hiện tốt những giải pháp và chú trọng giải quyết những vấn đề cấp bách đặt ra, nêu trên, đối với xây dựng văn hóa và con người Việt Nam,thì nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc mới làm cho văn hóa xứng đáng với vị trí: “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi” (Hồ Chí Minh)./.



[1] Đảng Cộng sản Việt Nam:Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII, NXb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.4.

[2]Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII, NXb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.55-56

[3]Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021,tập 1, tr.115

[4]Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, NXb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.64

[5]Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, tập 1, tr.110

[6]Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, tập 1, tr.105, tr.109-111.

[7]Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương, Hà Nội, 2014, tr.48

[8]Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, tập 1, tr.64,65

[9]Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021,tập 1, tr.84

[10]Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương, Hà Nội, 2014, tr.48

[11]Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, tập 1, tr.111-112

[12]Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, tập 1, tr.143

[13]Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, tập 1, tr.143

[14]Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, tập 1, tr.144.

[15] Xem:Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, tập 1, tr.145

[16]Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, tập 1, tr.145-146.

[17]Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, tập 1, tr.146-147.

[18]Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXb Chính trị quốc gia, HàNội, 2021, tập 1, tr.147

PGS.TS. Phan Thanh Khôi