Thứ Sáu, 26 Tháng Tư, 2024

Hiệp định Paris: Bài học về độc lập tự chủ và đoàn kết quốc tế

 Đây là thắng lợi vang dội của ngoại giao cách mạng Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh, góp phần quan trọng vào thắng lợi chung của toàn dân tộc, đồng thời để lại những bài học kinh nghiệm ngoại giao rất quý báu, trong đó có bài học về độc lập tự chủ và đoàn kết quốc tế.

Tháng 1/1967, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam lần thứ 13 quyết định mở mặt trận ngoại giao mới nhằm tố cáo mạnh mẽ hơn nữa tội ác đế quốc Mỹ, vạch trần những thủ đoạn hòa bình giả hiệu; đề cao lập trường chính nghĩa của cách mạng; tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ của các nước XHCN, nhân dân tiến bộ trên thế giới, trong đó có nhân dân Mỹ. Nghị quyết Hội nghị nêu rõ: “Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta hiện nay, đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị ở miền Nam là nhân tố chủ yếu quyết định thắng lợi trên chiến trường, làm cơ sở cho thắng lợi trên mặt trận ngoại giao. Chúng ta chỉ có thể giành được trên bàn hội nghị những cái mà chúng ta đã giành được trên chiến trường. Tuy nhiên, đấu tranh ngoại giao không chỉ đơn thuần phản ánh cuộc đấu tranh trên chiến trường mà trong tình hình quốc tế hiện nay, với tính chất cuộc đấu tranh giữa ta và địch, đấu tranh ngoại giao giữ một vai trò quan trọng, tích cực và chủ động”(2).

Mùa Xuân 1968, thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng đề ra, quân và dân ta mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trên khắp chiến trường miền Nam (lấy đô thị là hướng tiến công chủ yếu), buộc chính quyền Tổng thống Mỹ Lyndon B. Johnson phải xuống thang chiến tranh, chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán với ta tại Hội nghị Paris. Ngày 13/5/1968, cuộc đàm phán chính thức giữa đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa và đoàn đại biểu Chính phủ Mỹ bắt đầu diễn ra ở Paris (Pháp), đánh dấu một giai đoạn mới của cuộc chiến tranh Việt Nam: đọ sức trên chiến trường đồng thời với đọ sức trên mặt trận ngoại giao (cục diện “vừa đánh, vừa đàm”). Phía Việt Nam khẳng định lập trường không thay đổi là: Trước tiên, Mỹ phải chấm dứt không điều kiện các cuộc ném bom bắn phá và mọi hoạt động chiến tranh khác chống nước Việt Nam dân chủ cộng hòa; sau đó, mới bàn các vấn đề có liên quan của hai bên. Phía Mỹ nêu yêu cầu đòi miền Bắc rút quân khỏi miền Nam, chấm dứt việc đưa người và hàng chi viện vào miền Nam.

Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam Nguyễn Thị Bình ký Hiệp định Paris, ngày 27/1/1973. Ảnh: Tư liệu

Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam Nguyễn Thị Bình ký Hiệp định Paris, ngày 27/1/1973. Ảnh: Tư liệu

Đỉnh điểm của chính sách ngoại giao nước lớn của Mỹ diễn ra vào tháng 5/1972. Ngày 1/5/1972, Richard Nixon triệu tập Henry A. Kissinger đến văn phòng làm việc của ông ta để bàn bạc về thủ đoạn đối phó cho lần đàm phán sắp tới. Dù chịu những thất bại to lớn trên cả hai miền Nam, Bắc Việt Nam (đặc biệt là nhận được tin báo cáo việc đối phương đã kiểm soát tỉnh Quảng Trị và đang chuẩn bị tiến công vào Thừa Thiên Huế), nhưng Richard Nixon vẫn tin rằng có thể “trao đổi, thỏa hiệp” với Liên Xô để ép Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa nhượng bộ(4). Từ đó, Richard Nixon chỉ thị cho Henry A. Kissinger: “Dù cho bất kỳ việc gì xảy ra, thì trong các cuộc đàm phán vẫn không được thay đổi gì cả. Tôi không muốn ông nhượng bộ người Bắc Việt Nam chút nào. Do những tin tức như thế này, họ sẽ bốc lên như diều. Ông sẽ phải kéo họ xuống đất bằng cách ứng xử của mình. Không đa cảm, không nhã nhặn, không lịch sự. Vậy chúng ta sẽ cho các ông bạn Xô viết của chúng ta biết rằng tôi đã sẵn sàng bỏ rơi Hội nghị thượng đỉnh, nếu như đó chính là cái giá họ muốn bắt ta phải trả. Trong bất kỳ trường hợp nào, tôi cũng sẽ không đến Hội nghị thượng đỉnh nếu như chúng ta vẫn còn gặp những khó khăn ở Việt Nam”(5).

Trong cuộc gặp ngày 2/5/1972 tại Paris, Henry A. Kissinger vẫn giữ thái độ lập trường thương lượng trên thế mạnh, đồng thời, đề cập đến việc Mỹ cũng đã trao đổi thảo luận với Liên Xô về những giải pháp nhằm chấm dứt cuộc chiến tranh Việt Nam. Trước thái độ lập trường đó của Henry A. Kissinger, cố vấn Lê Đức Thọ (Việt Nam) tỏ ra kiên quyết, nói: “Từ trước tới nay chúng tôi đã nói nhiều lần rằng có vấn đề gì các ông nói chuyện trực tiếp với chúng tôi, và chúng tôi trực tiếp nói chuyện với các ông. Chúng tôi không qua một người thứ ba nào cả. Bây giờ có gì thì chúng tôi sẵn sàng thảo luận với các ông”(6).Mặt khác, ta kiên trì trao đổi, giải thích, thông tin về tiến trình đàm phán cho bạn bè quốc tế, đặc biệt là Liên Xô, Trung Quốc để tranh thủ sự ủng hộ, viện trợ của bạn, đồng thời hạn chế những tác động tiêu cực từ chính sách ngoại giao nước lớn của Mỹ.

Những thắng lợi quân sự to lớn của cách mạng Việt Nam trên chiến trường (Chiến dịch Đường 9 – Nam Lào 1971, cuộc tiến công chiến lược năm 1972,…) đã gây cho quân địch những thiệt hại nặng nề, từng bước làm phá sản chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” của Mỹ, tạo thế thuận lợi cho ta trên bàn đàm phán. 

Không lay chuyển được lập trường của Việt Nam trên bàn đàm phán, Richard Nixon bộ lộc rõ bản chất rất hiếu chiến bằng việc tăng cường các hành động quân sự trên chiến trường. Ngày 14/12/1972, Richard Nixon phê chuẩn kế hoạch mở cuộc tập kích đường không chiến lược chủ yếu bằng máy bay B-52 vào Hà Nội, Hải Phòng. Ông ta lệnh cho Đô đốc Thomas H. Moorer: “Đây là cơ hội của ông được sử dụng sức mạnh quân sự của chúng ta một cách có hiệu quả để thắng cuộc chiến tranh này; nếu ông không làm được việc đó, tôi cho rằng ông phải chịu trách nhiệm”(7). Như vậy, mục đích sử dụng B-52 đánh phá Hà Nội hoàn toàn nằm trong sự tính toán của chính quyền Richard Nixon, và sự tính toán ấy là có cơ sở nhằm những mục tiêu cơ bản: Thứ nhất, giành một thắng lợi quyết định về quân sự, tạo thế mạnh trong cuộc đàm phán tại Hội nghị Paris, buộc Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa phải ký kết hiệp định kết thúc chiến tranh có lợi cho Mỹ. Thứ hai, tàn phá tiềm lực kinh tế, quốc phòng miền Bắc Việt Nam, nhất là những thành phố quan trọng (Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên), làm cho miền Bắc kiệt quệ, không đủ sức chi viện cho cuộc kháng chiến ở miền Nam. Thứ ba, bằng cuộc tập kích đó, bảo đảm cho quân đội và chính quyền Sài Gòn có thêm thời gian ổn định để tăng cường lực lượng, tạo thế mạnh cho mọi giải pháp chính trị về sau. Thứ tư, gây tâm lý hoang mang, rối loạn trong nhân dân Việt Nam, ngầm răn đe và ngăn chặn miền Bắc Việt Nam mở cuộc tiến công lớn ở miền Nam sau khi hiệp định được ký kết. Thứ năm, thông qua cuộc tập kích chiến lược lớn chưa từng có và sự tàn phá ghê gớm của nó, Mỹ muốn chứng minh cho thế giới sức mạnh quân sự của Mỹ và răn đe các nước đang đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc.

Hội nghị Paris (1968 – 1973) mãi đi vào lịch sử dân tộc Việt Nam nói chung và ngoại giao cách mạng Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh nói riêng như một dấu son không bao giờ phai mờ. Kỉ niệm 50 năm ngày ký kết Hiệp định Paris (27/1/1973 – 27/1/2023), chúng ta càng nhận thức sâu sắc hơn về tầm vóc, ý nghĩa của văn kiện lịch sử đặc biệt này. Nhiều bài học kinh nghiệm rút ra từ cuộc đàm phán lịch sử này, trong đó, bài học về nêu cao tinh thần độc lập và đoàn kết quốc tế vẫn vẹn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc.
Từ ngày 18 đến ngày 29/12/1972, Mỹ mở cuộc tập kích đường không chiến lược (chủ yếu bằng máy bay B-52) vào Hà Nội, Hải Phòng

Từ ngày 18 đến ngày 29/12/1972, Mỹ mở cuộc tập kích đường không chiến lược (chủ yếu bằng máy bay B-52) vào Hà Nội, Hải Phòng

Từ ngày 18 đến ngày 29/12/1972, Mỹ mở cuộc tập kích đường không chiến lược (chủ yếu bằng máy bay B-52) vào Hà Nội, Hải Phòng. Nhưng cuộc tập kích bị thất bại hoàn toàn. Lực lượng phòng không miền Bắc Việt Nam đã bắn rơi 81 máy bay các loại (trong đó có 34 B-52), buộc Mỹ và chính quyền Sài Gòn phải ký kết hiệp định chấm dứt chiến tranh (27/1/1973). Theo đó, Mỹ và các nước cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam; rút hết quân viễn chinh và quân các nước đồng minh, phá hết các căn cứ quân sự Mỹ, cam kết không tiếp tục dính líu quân sự hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam; các bên để cho nhân dân miền Nam tự quyết định tương lai chính trị của mình thông qua tổng tuyển cử tự do; công nhận hiện trạng thực tế tại miền Nam Việt Nam có hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát và ba lực lượng chính trị; ngừng bắn tại chỗ, trao trả cho nhau tù binh và dân thường bị bắt. Với Hiệp định Paris, chúng ta đã “đánh cho Mỹ cút”, tạo điều kiện thuận lợi để “đánh cho ngụy nhào”, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước vào mùa Xuân 1975./.

TS. Trần Hữu Huy
Viện Lịch sử quân sự, Bộ Quốc phòng

(1) Lê Duẩn: Thư vào Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2005, tr.109 – 110.

(2)  Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2003, t.28, tr.174.

(3) Trần Quang Cơ: Đường lối quốc tế đúng đắn và sáng tạo của Đảng trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nước, Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Mặt trận ngoại giao với cuộc đàm phán Paris về Việt Nam”, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2015, tr.71.

(4) Anatoli Đôbrưnhin: Đặc biệt tin cậy– Vị Đại sứ ở Oasinhtơn qua sáu đời tổng thống Mỹ, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2001, tr.410 – 411.

(5) (7) Hồi ký Richard Nixon, Nxb. Công an nhân dân, H, 2004, tr.737 – 738, tr.904. 

(6) Lưu Văn Lợi, Nguyễn Anh Vũ: Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ – Kissinger tại Paris, Nxb. Công an nhân dân, H, 1996, tr.214.

Theo Tạp chí Tuyên giáo

 

 

 

spot_img
spot_img
spot_img

TIN CÙNG MỤC

TIN MỚI NHẤT